Tế Hanh đã về với “Mảnh Hồn Làng”“Làng tôi vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo vội vã vượt trường giang
Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...”
(Quê Hương)
Tế Hanh giới thiệu quê hương mình bằng những câu thơ giản dị, hồn nhiên như thế. Vậy mà khi đọc lên không ai không nao lòng khi nghĩ về làng quê của mình. Bởi lẽ đã là người, ai cũng có 1 làng quê để chào đời, một làng quê để lớn lên và 1 làng quê để thương nhớ. Quê hương cũng là nơi tìm về của chúng ta sau những ngày tháng phiêu du trong cuộc đời trần thế. Hôm nay, Tế Hanh đã trở về với cõi vĩnh hằng hay đúng hơn, ông đã trở về với “mảnh hồn làng” của quê hương. Trở về nơi ông đã cất tiếng khóc chào đời cách đây 88 năm.
Tế Hanh tên thật là Trần Tế Hanh (1921 - ) quê ông ở tại thôn Đông Yên, xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quãng Ngãi. Thuở nhỏ học trường làng, trường huyện sau ra học tại trường Quốc học Huế. Như một cơ duyên, ở đây ông gặp gỡ những người bạn trong phong trào thơ mới như Huy Cận, Xuân Diệu và được tiếp xúc với nền thơ ca Thế Giới, đạt biệt là thơ Pháp. Với tình yêu sẵn có, ông đã làm thơ cho và ra đời tập thơ đầu tiên mang nhan đề Nghẹn ngào vào năm 1939.
Làng quê Tế Hanh là 1 vùng sông nước nằm ven bờ hạ lưu sông Trà Bồng, con sông đã “tắm cả đời” ông. Đây cũng chính là nơi tạo nên nguồn cảm hứng để ông sáng tác những bài thơ nổi tiếng như : Quê Hương, Nhớ Con Sông Quê Hương, Trở Lại Con Sông Quê Hương... Chính vì vậy trong thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân đã không tiếc lời khen ngợi :“Tế Hanh là 1 người tinh lắm ! Tế Hanh đã ghi được đôi rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê. Người nghe thấy cả những điều không hình sắc, không thanh âm như “mảnh hồn làng”, như tiếng hát của hương đồng quyến rũ con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi thường ta chỉ thấy một cách mờ mờ, cái thế giới những tình cảm ta đã âm thầm trao cho cảnh vật... ”
“Mảnh hồn làng” trong thơ Tế Hanh bình dị và trong trẻo đến lạ lùng. Nó thật sự nhỏ nhoi, lãng lẽ khiêm nhường như chính hồn thơ đôn hậu, tinh tế, trong trẻo của ông. Nó như con đường quê oằn mình trong mưa nắng :
“Tôi, con đường nhỏ chạy lang thang
Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng
...
Tôi thâu tê tái trong da thịt
Hương đất hương đồng chẳng ngớt tuôn”
(Lời con đường quê)
Là hình ảnh sân ga lặng lẽ nơi phố huyện buồn thê thiết khi chứng kiến bao cảnh tiễn biệt :
“Tôi thấy tôi thương những chiếc tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có chi vướng víu trong hơi máy
Máy chiếc toa đầy nặng khổ đau.”
(Những ngày nghỉ học)
Đó còn là hình ảnh ngôi trường làng nhỏ mà ông về thăm sau 4 năm xa cách :
“Hơn bốn năm trời trở lại đây
Trường ơi! Sao giống tấm thân này ?
Mái hư, vách lở buồn xơ xác
Tim héo, hồn đau tủi đọa đày”
(Trường xưa)
Rồi “mảnh hồn làng” ấy lớn dần theo năm tháng, ăn sâu vào tâm thức của thi nhân để trở thành một tâm cảm dào dạt và sâu lắng. Lúc này nó đã trờ thành hình ảnh một vườn xưa cháy bỏng khát vọng tìm về sau những ngày công tác :
“Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa ?”
(Vườn Xưa)
Hay hình ảnh 1 con sông xanh biếc cuồn cuộn chảy trong tâm thức ông :
“Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre.
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè,
Tỏa nắng xuống lòng sông lấp loáng.
Chắng biết nước có giữ ngày, giữ tháng
Giữ bao kỉ niệm giữa dòng trôi ?
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi !”
(Nhớ con sông quê hương)
“Mảnh hồn làng” của Tế Hanh đã ôm ấp trong nó không chỉ sông biển quê hương, con đường quê với những ngày nghỉ học mà có cả hình ảnh người mẹ dấu yêu đã khuất :
“Con lặng nhìn xung quanh
Thấy mồ to mả bé
Và nhìn lại đời mình
Thấy từ đây thiếu mẹ”
(Bên mồ mẹ)
Là tủ sách của cha trong tâm trí của ông :
“Cái hòm nhỏ con con
Với tôi là của quý
Thơ đã hóa tâm hồn
Sách đã thành tri kỉ ”
(Cái tủ sách của cha tôi)
Và tất nhiên không thể thiếu hình ảnh của người thương ở “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” để rồi đến bây giờ thi nhân vẫn thấy ngẩn ngơ :
“Câu chuyện ngây thơ tự thuở nào
Bây giờ mới lại ngỡ chiêm bao
Ơi cô bạn nhỏ đâu rồi nhỉ ?
Chỉ thấy trong tôi mía xạc xào...”
(Mía)
Tất cả đã kết tinh thành 1 giai điệu riêng tạo nên phong cách thơ đôn hậu, đằm thắm và ngọt ngào.Cả khi những ngày sống ở thành phó Bắc Kinh tráng lệ, ông vẫn thấy hồn quê chảy trong tim :
“Đêm nay trăng sáng Bắc Kinh
Nhớ trăng Hà Nội thấm tình quê hương
Lòng như cuộn chỉ yêu thương
Quấn theo mỗi một đoạn trường ra đi.”
(Dặm Liễu)
Và tình cảm đẹp của ông với người con gái ở Hàng Châu :
“Vơ vẩn tình chăn chập chờn mộng gối
Anh mơ thấy Hàng Châu thành Hà Nội
Nước Tây Hồ Bỗng hoá nước Hồ Tây
Hai chúng mình cùng bước dưới hàng cây”
(Bài thơ tình ở Hàng Châu)
Với một con người có lòng gắn bó với quê hương sâu đậm như Tế Hanh. Cuộc sống lại dành cho ông những điều không may khi chẳng mấy khi ông được sống với làng quê ! Điều không may ấy của Tế Hanh khi phải sống ly hương lại là cái may để ông viết nên những bài thơ cảm động và da diết về quê hương.
Dẫu hôm nay Tế Hanh đã trở về với “mảnh hồn làng” xưa nhưng thơ ông vẫn sống mãi xanh tươi như cây đời, chứa chan tình yêu quê hương đất nước da diết và sâu đậm.
Chúc mừng nếu bạn đã đọc hết! Bạn có tâm hồn thơ và có khả năng thành thi sĩ đấy !